Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Truyền tin cổ xưa

Năm 1965, khi lên Thanh Ba, Phú Thọ tản cư, tôi thấy nếu có việc gì cần báo cho nhau, thì người ta ra đồi chụm hai bàn tay vào miệng hú. Thường là họ hú vài hồi khác nhau, rồi hôm sau thấy mọi người đến một nơi họp. Tò mò tôi đi xem té ra là buổi họp dân quân trên một quả đồi cao, mọi người đều mang theo một thanh mã tấu to sáng quắc. Con trẻ mà thấy cảnh tượng đó thì rất hích.

Buổi sau nghe tiếng hú tôi lại đi theo người làng, hóa ra lần này là họp hiệp tác xã sản xuất. Một người từ nơi xa đến thì không thể hiểu tiếng hú có thông báo gì. Mỗi lần hú có ba hồi khác nhau, hồi một là nội dung cuộc họp, hồi hai là địa điểm, hồi ba là thời gian… đại khái tôi đoán như vậy, tùy từng vùng có quy ước khác nhau.

Mỗi hồi lại truyền đạt thông tin theo quy ước riêng nào đó, ví dụ họp dân quân, họp cộng tác xã, họp Đảng ủy và chỗ họp thì khi nhà ông này, nhà bà kia, ngọn đồi nọ (được quy định vài nơi từ trước). Thực ra cách truyền tin này khá phức tạp và nó tồn tại ở miền sơn cước này có lẽ đến hàng ngàn năm.

Hiện tôi không chắc thanh niên ở Thanh Ba còn biết đến lối hú này, hẳn nhiên thay vì mỗi người có trong túi một chiếc điện thoại di động.


Trống đồng là vật truyền tin thượng cổ của người Việt trong nền văn hóa Đông Sơn

Cũng không phải là lâu, mới đây thôi, trước năm 1990, điện thoại bàn vẫn chưa phải nhà nào cũng có. Thư từ viết tay gửi qua bưu điện nhanh cũng ba hôm, còn thường một hai tuần, việc gì gấp thì phải ra bưu điện đánh điện tín.

Lùi lại trăm năm trước, thời phong kiến và tối cổ, vơ các phương pháp truyền tin đều cổ lỗ và tồn tại đến hàng ngàn năm. Đất nước càng dài rộng thì sự truyền tin càng lâu la, bởi vậy đến thời Nguyễn, sau khi vua Gia Long lên ngôi 1802, với một tổ quốc quá dài như nước ta, ông thấy đóng đô ở Huế là tiện nhất, tức thị nằm giữa hai đầu Bắc - Nam, truyền đạt chiếu chỉ công văn có tiện hơn, nhưng cũng mất hàng tuần lễ chạy ngựa trạm. Các vua triều Nguyễn cho sửa sang con đường Thiên lý, về căn bản trùng với con đường quốc lộ 1 hiện thời, đặt các trạm nghỉ và thay ngựa cho những người đưa tin của triều đình. Một bức vẽ của người phương Tây về phu chạy trạm thế kỷ 19 cho thấy anh ta mình trần đóng khố, vai mang một cây gậy có buộc bọc hành lý nhỏ.

Theo sử sách và Wikipedia con đường Thiên lý (quan lộ, quan báo) hình thành từ thời Lý. Nhà Lý chia thành từng cung có trạm quán, mỗi trạm cách nhau chừng 15 - 20km, có phu trạm gác, mục đích dùng chạy công văn triều đình. Đến thời nhà Lê sơ, năm 1471, đường Thiên lý được đắp từ Thăng Long đến Bình Định.

Khi vua Gia Long hợp nhất đất nước, thì con đường giao thông Nam - Bắc lại được triều đình sai đắp lại, chạy dài từ ải Nam Quan đến Hà Tiên. Dọc đường cách khoảng 30 dặm thì đặt một bệnh xá có viên chức địa phương nhóng. Tổng cộng vào giữa thế kỷ 19 có 133 trạm và 6.000 cai đội và phu trạm hòng. (Theo Bách khoa toàn thư mở, Wikipedia).



Lính chạy trạm, minh họa của A. De Neuville dựa trên một bức bưu ảnh, 1867. Hình trích từ sách Việt Nam trong dĩ vãng qua tranh khắc Pháp, NXB Văn hóa Dân tộc 1997.

Trống đồng chính là vật truyền tin thượng cổ của người Việt trong nền văn hóa Đông Sơn, đương nhiên trống được sử dụng nhiều hơn vào các lễ tế cầu mùa, ma tang và thờ thần thái dương. Trống đồng còn được dùng trong quân đội đến tận thời Trần, mà trong một bài thơ sứ thần nhà Nguyên Trần Phu nhắc đến, mỗi khi nghe tiếng trống đồng mà bạc cả tóc, do họ bị thất trận triền miên ở Đại Việt. Lối đánh trống đồng không phải theo kiểu cầm chày chọc thẳng vào mặt trống như người bây chừ hay làm, mà lật nghiêng trống, lấy dùi bọc cà dê đánh vào núm sao chính giữa hoặc vào tang tùy theo yêu cầu âm thanh, nhưng cần có một người đứng sau trống, cầm một cái thúng quạt hơi vào lòng trống.

Chinh và cổ (chiêng và trống) được dùng phổ thông trong quân đội các quốc gia phong kiến phương Đông. Chiêng dùng để bao hiệu thu quân, lui quân, trống dùng để tiến quân, tạo khí thế. Sau thời dùng trống đồng, trống da lớn (trống cái) tỏ ra đắc địa hơn, và ngày xưa các làng mạc dùng lối đánh trống để truyền tin, khi có lụt lội, hỏa hoạn, cướp bóc, giặc giã. Khi làng này đánh làng gần nhất nghe được nối gióng trống như vậy báo hiệu cho làng xa hơn. Nếu có hai làng kết chạ (kết anh em, đồng minh) thì có quy ước đánh trống riêng để thông báo giúp nhau mọi chuyện. Thủy hỏa đạo tặc (nước, lửa, cướp, giặc) là bốn tai họa đối với làng xã, trong đó giặc giã tuy đông nhưng lại không đáng sợ bằng ba thế lực trên, cần có các loại hiệu lệnh trống riêng để thông tin, ngoại giả còn việc làng việc nước, thì có thể dùng loa gọi mồm.

Đốt lửa có nhẽ là phương pháp truyền tin lâu đời bậc nhất khi khoảng cách khá xa. Từ biên giới người ta cho lập các hỏa đài, nếu có giặc giã đốt loại cây cỏ đặc biệt đốn xông khói lên cao báo hiệu cho đại quân và dân chúng biết. Tầm nhận biết của cột khói có thể là vài chục dặm, và cứ thế vòng phòng ngự trong tiếp tục đốt khói báo hiệu sâu vào đất liền.

Phương pháp truyền tin liên tiếp có lẽ là ngựa trạm là tối ưu nhất, tuy nhiên phương pháp này tốn kém vì người ta phải lập rất nhiều trạm nghỉ ven đường để đám khoái mã, phu trạm đổi ngựa. Tốc độ ban sơ của ngựa có thể đạt 20 - 30 km/giờ, nhưng chỉ sau tiếng đầu thôi, những tiếng đồng hồ sau tốc độ ngựa tụt xuống có khi chỉ là 10 - 12 km/giờ, sau vài giờ chạy là phải thay ngựa mới.

Xếp cây que, lá ám hiệu, thổi kèn trống, phất cờ, thơ… đều là những cách truyền tin thượng cổ. Tùy từng khoảng cách, độ nguy cấp của thông tin mà người ta quyết định dùng đến dụng cụ nào. Bít tất những phương pháp truyền tin thượng cổ chính yếu chỉ dùng trong triều chính và quân đội, hay hoạt động cộng đồng nào đó như làng xã, còn thường dân thì cứ tay bắt mặt mừng, quờ là trực tiếp, chẳng may trong gia đình có người đi lính hay buôn bán xa thì cách tốt nhất là chờ.

Bài Phan Cẩm Thượng. Ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét